Thế gian và Cơ Đốc nhân

Nếu phải tóm gọn tinh thần Cựu Ước trong một câu, thì đó chính là: “Bảo vệ, quan tâm và phục vụ người yếu thế.” Luật Torah là bộ luật bảo vệ những người yếu đuối. Cựu Ước nói về hòa bình (shalom). Đó là một cuộc sống mà những điều cao quý được hạ xuống và những điều thấp hèn được nâng lên, và chúng ta sống cùng nhau. Bình an thực sự là cùng sống tốt với nhau. Khi ta từ bỏ tinh thần cạnh tranh và ý thức phân biệt đối lập với người khác, lúc ấy sự sống theo chân lý mới có thể nở hoa. Thế giới tạo vật này vận hành như một cơ thể vô hình. Nỗi đau của một người, sự nghèo khó của ai đó – nếu không được chăm sóc – một ngày nào đó sẽ trở thành nỗi khổ của chính ta. Nâng đỡ người khổ đau không chỉ vì họ, mà là vì chúng ta – vì sự sống chung của cả cộng đồng.

Một đoạn suy niệm từ sách A-mốt minh họa rất rõ đặc điểm này của Cựu Ước:

       A-mốt 3:9–4:3 : “9 Hãy rao truyền ra trong các đền đài Ách-đốt, và trong các đền đài của Ai Cập. Hãy nói rằng: “Các ngươi hãy tụ họp trên các núi của Sa-ma-ri; Hãy xem bao rối loạn lớn ở đó và những áp bức giữa dân nó” 10 Đức Giê-hô-va phán: “Chúng không biết làm điều ngay thẳng; Chúng chất đầy của cải do bạo hành và cướp giật trong các đền đài mình.” 11 Vì thế, Chúa Giê-hô-va phán: “Kìa, kẻ thù sẽ đến bao vây đất nầy; Nó hủy diệt sức mạnh ngươi và cướp phá những đền đài của ngươi.” 12 Đức Giê-hô-va phán: “Như người chăn chiên chỉ gỡ được hai chân hay một lỗ tai ra khỏi miệng sư tử thì con cái Y-sơ-ra-ên ngồi tại Sa-ma-ri trên góc giường và trên trường kỷ của Đa-mách cũng sẽ được cứu như vậy. 13 Chúa Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân phán: Hãy nghe và làm chứng chống lại với nhà Gia-cốp. 14 Trong ngày Ta trừng phạt Y-sơ-ra-ên về tội lỗi nó, Ta cũng sẽ phá hủy các bàn thờ của Bê-tên; Các sừng của bàn thờ sẽ bị chặt và rơi xuống đất. 15 Bấy giờ, Ta sẽ phá hủy nhà mùa đông và nhà mùa hạ; Những nhà bằng ngà voi sẽ bị tàn phá và những nhà lớn sẽ bị hủy diệt,” Đức Giê-hô-va phán vậy.1 Hỡi những bò cái của Ba-san, ở trên núi Sa-ma-ri, Hãy nghe đây! Các ngươi áp bức kẻ nghèo nàn, hà hiếp người thiếu thốn, Và nói với chồng của mình rằng: “Hãy đem thức uống đến đây!” 2 Chúa Giê-hô-va đã lấy đức thánh khiết của Ngài mà thề rằng: “Thì giờ sẽ đến trên các ngươi, Khi người ta sẽ dùng móc bắt lấy các ngươi, Dùng lưỡi câu mà bắt những kẻ sống sót của các ngươi. 3 Mỗi người trong các ngươi sẽ chui ra Qua những lỗ thủng của tường thành, Và các ngươi sẽ bị ném vào Ha-môn,” Đức Giê-hô-va phán vậy.”

Đức Chúa Trời lập một vị vua để cai trị vương quốc Ngài. Ngài lập nhiều chức vụ và ban ngành khác nhau trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời để xây dựng nhà Ngài. Ngài không ban cho mọi người cùng một khả năng hay địa vị. Ngài cho phép một số người nhận được nhiều hơn và một số người nhận được ít hơn. Nhưng cho tất cả, Ngài ban cùng một luật – đó là luật của tình yêu, của ân điển – luật của “hê-sết” (Hesed). Theo luật này, ai được nhiều thì phải cho nhiều. Người có quyền thì phải phục vụ kẻ yếu. Đó là lý do vì sao họ được ban cho nhiều – để phục vụ, không phải để thống trị. Không tuân theo luật này chính là xem thường Đức Chúa Trời. Không giữ luật này là phản bội vương quốc của Ngài. Đây là luật nền tảng – là Hiến pháp của Nước Trời.

Nhưng nhiều Hội Thánh hôm nay, vì bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tự do, đã quên mất Hiến pháp này. Họ hành xử như thể chưa bao giờ biết đến luật ấy. Những việc đáng lẽ là “đương nhiên phải làm” thì bị xem như “tùy chọn”, thậm chí là “nếu có làm thì được khen”.

Họ dựa vào lý luận kinh tế rằng: nếu người giàu bắt buộc phải chia sẻ thì ai còn muốn làm việc nữa? Họ vẫn hô vang “Chỉ bởi ân điển”, nhưng thực chất ân điển ấy chỉ áp dụng cho sự cứu rỗi sau khi chết – còn cuộc sống hiện tại thì chẳng có chỗ nào cho ân điển cả. Họ sống như thể mọi thứ đều là kết quả của nỗ lực và công lao cá nhân. Hội Thánh, nơi đáng lý phải là cộng đồng của ân điển, lại trở thành nơi tôn thờ năng suất và phần thưởng cá nhân.

Hội Thánh nói rằng họ tin vào ân điển và quyền năng của Đức Chúa Trời, nhưng lại vì sợ chủ nghĩa cộng sản mà từ bỏ Phúc Âm của ân điển, chạy theo chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa vật chất. Họ nhiệt tình rao giảng đức tin “luật pháp hóa” – dạy rằng nếu trung thành thì sẽ được giàu có.

Trong một Hội Thánh như vậy, luật của tình yêu – nơi người lớn phải phục vụ người nhỏ – không còn là một giá trị tuyệt đối. Nó chỉ là thứ nên có, nhưng nếu xung đột với lợi ích kinh tế hay chủ nghĩa chống cộng thì có thể gạt sang một bên. Tài sản và quyền lực mà có được từ “sự trung tín” được xem là “quyền lợi đương nhiên”. Người nghèo thì bị coi là kẻ không cố gắng, cho nên không cần thương xót, càng không cần giúp đỡ. Từ chối giúp họ không bị xem là tội, cũng chẳng khiến ai áy náy (xem câu 10).

Nhưng Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt một Hội Thánh như vậy. Bởi Ngài vẫn xem đó là cộng đồng của tuyển dân Ngài, nên Ngài phải sửa phạt (3:2).

Lạy Chúa, trước khi sự báo trả xảy ra, các sừng bị gãy và các cung điện bị phá hủy, xin hãy khiến hội thánh chúng con quay trở lại để đáp lại lời cảnh báo. Ít nhất, xin hãy biến chúng con thành một hội thánh biết quay trở lại ngay sau khi nhận được sự báo trả. Amen!

Giải nghĩa Kinh Thánh Cựu Ước

Những người có đức tin: Giô-suê và Ca-lép (Dân số ký 13:17–14:10)

1. Nội dung chính và thần học của sách Dân số ký

Sách Dân số ký, là quyển thứ tư trong Ngũ Kinh, là sách ghi chép về đời sống của dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng, và qua việc mô tả dân số của dân Y-sơ-ra-ên được kiểm tra vào đầu và cuối giai đoạn đồng vắng, sách này thể hiện một cách sinh động rằng lời hứa của Đức Chúa Trời đang được chuyển giao từ thế hệ ra khỏi Ai Cập đầy oán trách và bất tín sang thế hệ được gọi là “thế hệ đồng vắng.”

Xét theo đặc điểm địa lý, sách Dân số ký được chia làm hai phần lớn: phần thứ nhất kéo dài từ chương 1 đến chương 10, câu 10; phần thứ hai từ chương 10, câu 11 đến chương 36 – chương cuối cùng. Phần thứ nhất ghi lại nội dung dân Y-sơ-ra-ên ở lại tại hoang mạc Si-nai và chuẩn bị lên đường hướng về đất hứa. Phần thứ hai ghi chép về cuộc hành trình trong đồng vắng của Y-sơ-ra-ên, từ lúc họ rời đồng vắng Si-nai cho đến khi đến được đồng bằng Mô-áp.

Cuộc sống của dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng, được mô tả trong sách Dân số ký, cho thấy rằng đồng vắng là nơi thiếu thốn và đói khát (20:5), vì vậy cũng là nơi phát sinh sự phàn nàn và oán trách. Dù rằng Đức Chúa Trời đã ban cho họ ma-na và chim cút (xuất hiện trong Xuất Ê-díp-tô ký chương 16), nhưng xét trong bối cảnh 40 năm sống trong đồng vắng thì điều đó là quá đỗi thiếu thốn. Tuy nhiên, mặc dù đồng vắng là nơi thử thách và đau khổ, là nơi khiến người ta dễ dàng than phiền và oán trách, thì đó vẫn là nơi dân Y-sơ-ra-ên nhất thiết phải đi qua để có thể vào được xứ Ca-na-an – miền đất hứa của Đức Chúa Trời. Cuộc hành trình lang thang trong đồng vắng của dân Y-sơ-ra-ên thực chất là phương tiện quan trọng mà Đức Chúa Trời đã sử dụng để hạ họ xuống và thử luyện họ (Phục truyền luật lệ ký 8:1–3).

Tuy nhiên, thật đáng buồn, dân Y-sơ-ra-ên đã không hoàn thành cách thành công quá trình huấn luyện và thử luyện đó. Họ lẽ ra phải học được thái độ sống cậy nhờ nơi Đức Chúa Trời qua hành trình đồng vắng – một cuộc sống hoàn toàn không có điều kiện sống thỏa đáng. Dẫu vậy, Đức Chúa Trời vẫn chấp nhận sự thất bại của dân sự, và vẫn dẫn dắt họ vào đất hứa. Dù rằng thế hệ ra khỏi Ai Cập từ 20 tuổi trở lên đã bị phạt không được đặt chân vào đất Ca-na-an, nhưng lời hứa của Đức Chúa Trời đã được ứng nghiệm thông qua thế hệ mới còn lại.

2. Phân tích nội dung

Xét theo đặc điểm địa lý, sách Dân số ký có thể được chia làm hai phần lớn: phần thứ nhất từ chương 1 đến chương 10 câu 10, và phần thứ hai từ chương 10 câu 11 đến chương 36 (kết thúc sách).

  • Phần thứ nhất có bối cảnh địa lý giống với các phần từ Xuất Ai Cập ký 19 trở đi đến Lê-vi ký: dân Y-sơ-ra-ên vẫn đang ở tại hoang mạc Si-nai, chuẩn bị rời đi để hướng đến Đất Hứa.
  • Phần thứ hai ghi lại cuộc hành trình kéo dài trong hoang mạc của cộng đồng xuất Ai Cập – từ khi rời hoang mạc Si-nai cho đến khi đến đồng bằng Mô-áp.

Ngoài ra, sách Dân số ký cũng có thể chia làm ba phần chính theo hành trình:

  1. Chuẩn bị xuất phát tại hoang mạc Si-nai (1:1–10:10)
  2. Hành trình từ hoang mạc Si-nai đến Ca-đe Ba-nê-a (10:11–20:13)
  3. Hành trình từ Ca-đe Ba-nê-a đến đồng bằng Mô-áp (20:14–ch.36)

Nếu như phần một và hai tập trung vào sự phán xét vì sự vô tín và phản nghịch của dân, thì phần ba lại hướng về niềm hy vọng mới của thế hệ trong hoang mạc những người thay thế thế hệ đầu tiên bị tiêu diệt. Cấu trúc cơ bản của sách Dân số ký có thể được sắp sếp thành 5 phần như sau:

  • Chuẩn bị xuất phát tại hoang mạc Si-nai (1:1–10:10)
  • Hành trình từ núi Si-nai đến Ca-đe Ba-nê-a (10:11–ch.12)
  • Dừng chân tại Ca-đe Ba-nê-a trong hoang mạc Pha-ran (13:1–20:13)
  • Hành trình từ Ca-đe đến đồng bằng Mô-áp (20:14–22:1)
  • Lưu lại tại đồng bằng Mô-áp (22:2–ch.36)

Hành trình 40 năm của dân Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc kể từ khi rời Ai Cập đến khi vào Đất Hứa, theo các phần đoạn trong Kinh Thánh, có thể được mô tả như sau. Qua đó, ta thấy rõ rằng sách Dân số ký ghi lại khoảng 38 năm 9 tháng của cuộc đời lưu lạc trong hoang mạc, và có một khoảng thời gian đáng kể giữa chương 19 và chương 20.

  • Rời Ai Cập: Năm thứ nhất, ngày 15 tháng 1, (Xuất 12:2; Dân 33:3)
  • Đến hoang mạc Si-nai: Năm thứ nhất, ngày 1 tháng 3 (Xuất 19:1)
  • Đức Chúa Trời hiện ra trên núi Si-nai: Năm thứ nhất, ngày 3 tháng 3, (Xuất 19:16)
  • Hoàn tất xây dựng đền tạm: Năm thứ hai, ngày 1 tháng 1, (Xuất 40:17)
  • Kiểm tra dân số tại hoang mạc Si-nai: Năm thứ hai, ngày 1 tháng 2, (Dân 1:1)
  • Xuất phát khỏi hoang mạc Si-nai: Năm thứ hai, ngày 20 tháng 2, (Dân 10:11–12)
  • Đến Ca-đe: Năm thứ 40, tháng 1 (Dân 20:1)
  • Mi-ri-am qua đời: Năm thứ 40, tháng 1 (Dân 20:1)
  • A-rôn qua đời: Năm thứ 40, ngày 1 tháng 5, (Dân 20:29; 33:38)
  • Bài giảng của Môi-se tại đồng bằng Mô-áp: Năm thứ 40, ngày 1 tháng 11, (Phục 1:3)
  • Vào Đất Hứa ( Ca-na-an): Năm thứ 41, ngày 10 tháng 1, (Giô-suê 4:19)

Tài liệu học Kinh Thánh: Giô-suê và Ca-lép – những người có đức tin (Dân số ký 13:17–14:10)

1. Khi Môi-se rời núi Si-nai (Dân 10:33) và dừng chân tại Ca-đe trong hoang mạc Pha-ran (13:26), ông chọn ra mỗi chi phái một người – tổng cộng 12 người – để đi do thám Đất Hứa.

  • Ai đã ra lệnh do thám xứ Ca-na-an? (13:1–3)
  • Trách nhiệm của các thám tử là gì? (13:17–20)
  • Họ đã do thám trong bao nhiêu ngày? (13:25)

2. Mệnh lệnh do thám của Đức Chúa Trời dạy chúng ta bài học gì? Trước những việc quan trọng, chúng ta cần có sự chuẩn bị như thế nào là đúng đắn? (Giô-suê 2:1- “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng”) Tuy nhiên, chỉ sự chuẩn bị chiến lược chưa đủ, cần có điều gì đi kèm? Sự chuẩn bị thuộc linh (xem Ma-thi-ơ 4:1-2; Lu-ca 6:12-13; 22:39-44). Bạn có đang áp dụng những nguyên tắc này trong đời sống không?

3. Báo cáo của mười thám tử (13:27–29, 31–33) và báo cáo của Giô-suê & Ca-lép (13:30; 14:5–9) khác nhau như thế nào? So sánh với lời của Đa-vít nói với Sau-lơ (1 Sa-mu-ên 17:34–37) và lời nói với Gô-li-át (1 Sa-mu-ên 17:45–47). Hãy cùng nhau suy ngẫm về: Đức tin là gì? (xem Hê-bơ-rơ 11:1–3, 6)

4. Dân Y-sơ-ra-ên đã nghe theo báo cáo nào? (14:1–4). Những người không tin lời hứa của Chúa đã bị hình phạt ra sao? (14:20–23, 26–36). Giô-suê và Ca-lép đã nhận được phần thưởng gì? (14:30, 38). Nếu đức tin của Áp-ra-ham, Môi-se, Giô-suê, và Ca-lép được tính là 100 điểm – thì đức tin của bạn hôm nay là bao nhiêu điểm?

Đây là tạp chí mà tôi muốn chia sẻ những điều học hỏi và nhận thức được trong quá trình nghiên cứu Tiến sĩ tại Trường Thần học Kinh Thánh Ezra, dựa trên các nguyên tắc sau:

    1. Chỉnh lý những phần có ý nghĩa về mặt nghiên cứu Kinh Thánh.
    2. Lược bỏ các chú thích không cần thiết trong bản gốc và đơn giản hóa cách tối đa
    3. Chỉnh sửa bản phác thảo còn dang dở dựa trên sự hiểu biết cá nhân.
    4. Cung cấp thông tin tối thiểu về các tài liệu nền tảng
    5. Thay vì ghi lại tất cả những gì học được, ưu tiên chọn lọc và chia sẻ nội dung ngắn gọn nhưng đều đặn.

Tác giả: Thanh Bình

Giới Thiệu về Kênh Youtube Đọc Kinh Thánh VIỆT-HÀN (Đường link Youtube)

Đây là kênh đọc Kinh Thánh Việt – Hàn dành cho rất nhiều đối tượng: trẻ em trong gia đình đa văn hóa Hàn-Việt, những người phục vụ Chúa có liên quan đến hai ngôn ngữ Việt-Hàn và cả những người học ngoại ngữ muốn nâng cao thêm khả năng sử dụng ngôn ngữ. Dù là cho mục đích gì thì xin mọi sự hiệp lại làm ích lợi cho những người yêu mến Chúa.

Mong mọi người ủng hộ kênh bằng cách “Đăng ký” và “Thích“👍 để chúng tôi có động lực làm.

Bản dịch được sử dụng trong kênh:

  • Bản dịch tiếng Việt: Kinh Thánh tiếng Việt Bản Hiệu đính 2010. Bản quyền © 2010 United Bible Societies.
  • Bản dịch tiếng Hàn: 대한성서공회 : 저2023-032 ‘성경전서 새번역’의 저작권 사용허가