“Cơ đốc giáo – một hệ thống cho toàn bộ đời sống” của Abraham Kuyper
(Phần 1)
- Abraham Kuyper, Cơ đốc giáo như một hệ thống cuộc sống, dịch bởi Seomun Kang, Nhà xuất bản Saesoon, Seoul: 1987
- Abraham Kuyper/ 1837-1920
- 1862 (25 tuổi) / Nhận bằng tiến sĩ thần học từ Đại học Leiden
- Công tác mục vụ tại giáo xứ nông thôn nhỏ Beesd → Công tác mục vụ tại các nhà thờ Cải chánh lớn ở Utrecht và Amsterdam (nơi diễn ra lễ đăng quang của nhà vua) / trang 27-28
- Năm 1872 (ở tuổi 35), ông trở thành biên tập viên của tờ The Standard, một tờ nhật báo Cơ đốc giáo. Trong 47 năm tiếp theo, ông đã viết hàng ngàn bài xã luận về các vấn đề công cộng và xã hội. Đồng thời, ông cũng biên tập tờ The Herald , một tờ báo nhà thờ hàng tuần, trong nhiều thập kỷ, xuất bản nhiều bài viết thần học và tôn giáo.
- 1874 (37 tuổi) / Dừng mục vụ và trở thành đại biểu Hạ viện. Trở thành trưởng lão để tập trung vào công việc nhà thờ và công tác của mình với tư cách là đại biểu Hạ viện.
- 1867-1874 / Nhấn mạnh chức vụ giảng đạo của một mục sư
- Hãy dâng tấm lòng mình cho Chúa Kitô qua sự ăn năn
- Nhận ra rằng tội lỗi tồn tại trong tấm lòng con người và khắp thế giới.
- Đặc tính lịch sử của Đấng Christ nhập thể / trang 15-16[1]
- 1877 (40 tuổi) / Từ chức khỏi quốc hội và cống hiến hết mình cho việc thành lập Đảng Phản cách mạng
- 1879 (42 tuổi) / Sau khi thu thập được 304.000 chữ ký ủng hộ quyền tự do cho các trường tiểu học Cơ đốc tư thục, ông đã đệ đơn thỉnh cầu lên nhà vua vào năm 1878 và thành lập Đảng Phản Cách mạng dựa trên đơn thỉnh cầu này. Đảng này trở thành nơi để những người Cơ đốc giáo bình thường tham gia vào các công việc quốc gia chính đáng. / trang 28
- 1880 (43 tuổi) / Thành lập Đại học Tự do Amsterdam (Vrije Universiteit Amsterdam) như một học viện cấp đại học tư thục dành cho các nghiên cứu cải cách và giữ chức giáo sư thần học trong hơn một thập kỷ / trang 28-29
- 1886 (49 tuổi) / Rời khỏi Giáo hội Cải cách Hà Lan (Dutch Reformed Church) và thành lập Giáo hội Cải cách Hà Lan (Reformed Churches of the Netherlands).
- 1894 (57 tuổi) / Được bầu lại làm đại biểu Quốc hội. Đại diện cho việc mở rộng quyền bầu cử cho người dân thường.
- 1898 (61 tuổi) / Tham gia bầu cử Thủ tướng / Trang 29. Nhận bằng tiến sĩ danh dự sau khi giảng bài tại Đại học Princeton.
- 1901 (64 tuổi) / Nhậm chức Thủ tướng
- 1905 (68 tuổi) / Từ chức Thủ tướng với số phiếu sít sao
- 1920 (83 tuổi) / Mất / Trang 30
- Người lãnh đạo của Chủ nghĩa Tuyên tín trong Giáo hội Cải cách Hà Lan
- Ông đã viết một bài suy ngẫm mỗi tuần trong suốt cuộc đời mình và xuất bản nó trên bản tin của nhà thờ, “The Herald”/ 16 trang
- Sự đảm bảo về sự tái sinh, Biện giáo văn hóa toàn diện ở cấp độ đại chúng và Ứng dụng thực tiễn của tâm linh chính trị/ trang 15, 17
- Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và tin tưởng vào quan điểm được trình bày trong “Unbelief and Revolution” (Tạm dịch “Sự hoài nghi và cách mạng”) của G. Groen van Prinsterer (1801-1876) / trang 17-18
Được dịch năm 1987, cuốn sách tôi có là ấn bản đầu tiên, in lần thứ năm, xuất bản năm 1993. Nó được dịch khi tôi đang phục vụ trong quân đội. Đó là thời điểm mà những người trẻ theo đạo Cơ Đốc ngày càng quan tâm đến thế giới quan Cơ Đốc, và vì vậy nó dường như đã được đọc rộng rãi.
Abraham Kuyper cho rằng thuyết Calvin vượt trội hơn thuyết Luther, là kết quả của công tác dẫn dắt và cho phép của Chúa Thánh Linh, mở rộng sự mặc khải của Chúa thành chân lý không chỉ áp dụng trong nhà thờ mà còn trong mọi lĩnh vực của đời sống con người.
Tương tự như Kim Jae-oh, người đã biết đến Chúa trong những năm tháng êm đềm và trong trẻo thời trung học và cầu nguyện cho sự thống nhất hòa bình với người dân Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên, xưng nhận (trong một buổi thông công vào ngày 2 tháng 8 năm 2025) rằng sự hiểu biết sâu sắc của ông về ‘sự thống nhất của Bán đảo Triều Tiên’ là do Chúa Thánh Linh soi dẫn.
Cuốn sách này của Abraham Kuyper dường như dựa trên các bài giảng tại Hoa Kỳ. Vì là bản dịch cũ, nên không có đề cập đến điều này. Nhiều câu phức tạp khó hiểu ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nó đề cập đến những chủ đề nặng nề (?), thúc đẩy các nỗ lực chính trị (trong phạm vi công cộng) và thực tiễn (trong phạm vi cá nhân), được xây dựng trên những suy tư sâu sắc, phức tạp và ở trình độ cao về thần học, nhân văn và khoa học xã hội. Tóm lại, chủ nghĩa Kuyper là một phiên bản Calvin của thế kỷ 19, gợi nhớ đến luật lệ Sinaitic trong Xuất Ai Cập Ký được diễn đạt lại thành luật lệ Moabite trong Phục Truyền Luật Lệ Ký. Nhưng chẳng phải thế giới ngày nay chỉ mong đợi những điều “dễ dàng và vui vẻ” sao? Ngay cả trong vấn đề đức tin, nơi mà cuộc sống và ý nghĩa (tối hậu) của cuộc sống phụ thuộc vào, người ta cũng không còn nghiêm túc nữa. Họ chỉ đơn giản phó mặc cho mục sư và lắng nghe một bài giảng hay ho. Câu sau đây thực sự gây ấn tượng sâu sắc với tôi.
Nói rằng, “Tôi chỉ là một giáo dân, không phải là nhà thần học,” không phải là biểu hiện của sự khiêm nhường, mà là của sự lười biếng.[2]
Tôi đã bỏ qua các phần phân chia của văn bản gốc và thêm các tiêu đề phụ, nhưng các đoạn trích dưới đây có thể không nhất thiết trùng khớp. Nội dung trong [ ] và các phần màu xanh lam tương ứng với cách diễn giải của riêng tôi. Tôi tôn trọng các phần phân chia chương gốc của cuốn sách, nhưng sắp xếp chúng theo cách riêng của mình.
Giới Thiệu
Bài luận “Cơ Đốc giáo và Chủ nghĩa Tự do” (1923) của sử gia Gresham Machen thuộc Chủng viện Thần học Princeton viết: “Đã có một sự thay đổi đáng kể trong 25 năm qua. Sự thay đổi này không gì khác hơn là việc chấp nhận các tôn giáo ngoại giáo làm lối sống chủ đạo thay vì Cơ Đốc giáo. Bảy mươi lăm năm trước, bất chấp những bất đồng, nền văn minh phương Tây chủ yếu là Cơ đốc giáo. Ngày nay, nó mang bản chất ngoại giáo.” / trang 14. Lời thú nhận này được đưa ra cách đây hơn một thế kỷ, vào năm 2025, và thực tế ngày nay vẫn vậy. Có lẽ nó đã trở nên phức tạp và tồi tệ hơn.
Những nguyên tắc cơ bản trong học thuyết biện giáo của Kuyper
- Một quan điểm độc lập của Cơ Đốc giáo/ Niềm tin Kinh Thánh rằng Chủ nghĩa Calvin là biểu hiện rõ ràng nhất của Cơ Đốc giáo Tin Lành/ Trang 18
- RC Backhuizen van Den Brink, “Chủ nghĩa Calvin là sự phát triển cao nhất của các nguyên tắc tôn giáo và chính trị của thế kỷ XVI.” / trang 34
- Mark Pattison, “Chủ nghĩa Calvin đã cứu châu Âu.”
- Willis, “Chủ nghĩa Calvin, hay một số hình thức sửa đổi của các nguyên tắc cốt lõi của nó, là đức tin tôn giáo được tuyên xưng bởi những người thông minh nhất, đạo đức nhất, chăm chỉ nhất và siêng năng nhất trong nhân loại trên thế giới hiện đại.” / trang 35
- Chủ nghĩa Calvin… đã phát triển thành một hệ thống thần học riêng biệt, sau đó thành một trật tự xã hội cụ thể, rồi thành một hình thức xác định trong chính trị, đời sống xã hội, cách giải thích trật tự thế giới đạo đức, mối quan hệ giữa thiên nhiên và ân sủng, Cơ đốc giáo và thế giới, giáo hội và nhà nước, và cuối cùng là nghệ thuật và khoa học. / tr. 37
- Chủ nghĩa Calvin không phải là một hệ thống địa phương hay một hiện tượng tạm thời, mà là một hệ thống ấn tượng bao trùm tất cả, một hệ thống cuộc sống bắt nguồn từ quá khứ, có khả năng trao quyền cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại và truyền cho chúng ta niềm hy vọng tự tin vào tương lai. / trang 37-38
- Khi chúng ta hỏi ai là người có hiểu biết sâu sắc nhất về các nguyên tắc của cuộc Cải cách, ai là người thể hiện chúng một cách đầy đủ hơn và ai là người áp dụng chúng rộng rãi nhất, thì lịch sử không chỉ ra Luther, người anh hùng của Wittenberg, mà là Calvin, nhà tư tưởng của Geneva. / tr. 41
- Diễn giải Kinh Thánh Cải cách / Niềm tin mạnh mẽ vào tính bất khả ngộ và chuẩn mực tuyệt đối của Kinh Thánh → Áp dụng các chuẩn mực Kinh Thánh vào thế giới hiện đại như một phương tiện nguyên tắc giải quyết những thách thức hiện tại liên quan đến các giá trị và chuẩn mực tối thượng = Niềm tin và Cam kết với Tính chuẩn mực Liên tục của Kinh Thánh. Phương pháp tiếp cận được thực hiện trong Tập 2 của “Các học thuyết Cơ Đốc giáo”! / Trang 18
- Ý thức lịch sử Cơ đốc giáo/Quan điểm cải cách về sự sáng tạo và lịch sử
- Một quốc gia không thể có quyền hợp pháp để kiểm soát mọi khía cạnh của thực tế.
- Công việc của vương quốc Đức Chúa Trời vượt xa sự kiểm soát của nhà thờ chính thống (giáo hội quốc gia) trong việc thực hiện sứ mệnh quản lý văn hóa của mình trong mọi khía cạnh của đời sống.
- Chúa Giê-su Christ, Đức Chúa Trời nhập thể, đã đến để cứu những tội nhân và cuối cùng là để phục hồi sự sáng tạo dưới hình thức một sự kiện lịch sử và thời gian. / Trang 19
Biện giáo Văn hóa
- Nơi nào Lời Chúa không được nhận thức rõ ràng, sự phân định (hay lý luận) của con người chắc chắn sẽ bị lừa dối. Mọi sự sáng suốt của con người phải cúi mình trước Lời Chúa được công bố. / Trang. 20
- Một người tái sinh là người đã truyền hoàn toàn sức sống mới của mình vào cảm xúc và suy nghĩ, bao gồm cả lĩnh vực chính trị. / Trang 21. Trong khái niệm này, thuật ngữ “Kitô hữu cực hữu” có vẻ không hợp lý.
- Tôn giáo khác với thiền định trừu tượng và phi thực tế. / Trang 21
- Con người hoặc phải thờ phượng Đức Chúa Trời của Kinh Thánh hoặc phải phục vụ tạo vật (Rô-ma 1:25). / Trang 21
- Làm rõ những xung đột cơ bản giữa đức tin và sự hoài nghi nảy sinh trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Nhìn nhận toàn bộ cuộc sống như một phản ứng tôn giáo, chuẩn mực và toàn diện trước thách thức của sự hoài nghi. / Trang 22
Tâm linh chính trị (đời sống chính trị được dẫn dắt bởi đức tin)
- Cách tiếp cận của Cơ đốc giáo đối với các vấn đề xã hội công cộng và hoạt động chính trị.
- Nó bắt đầu với niềm tin rằng cả tội lỗi và ân sủng đều tồn tại trong chính trị.
- Người tin Chúa không nên hoàn toàn bi quan hay hoàn toàn lạc quan, nhưng phải nhìn nhận những vấn đề khác nhau của đất nước theo tinh thần hiện thực của Kinh Thánh. / Trang 22-23
- Để thúc đẩy công bằng xã hội, chúng ta phải suy ngẫm về vai trò của nhà nước theo Kinh Thánh. Cơ đốc nhân phải nghiêm túc thực hiện cam kết làm người quản lý chính trị trung thành. / Trang 23-24
- Một cách nhìn nhận lĩnh vực chính trị qua con mắt đức tin… được vun đắp bằng cách nhận ra mối quan hệ giữa ân điển chung và chân lý Cơ đốc giáo, cũng như vai trò của chân lý Cơ đốc giáo trong việc giải quyết tội lỗi khi nó xuất hiện trong tiến trình chính trị toàn cầu. / Trang 24
- Làm sáng tỏ ý nghĩa cơ bản của sự tái lâm hữu hình của Chúa Giê-su Christ vì mục đích chính trị (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:1-8) / Trang 24
- Cuộc sống cộng đồng không hoàn toàn tốt nhưng cũng không hoàn toàn xấu.
- Tham gia vào công việc chính trị và tâm linh là một sứ mệnh thiêng liêng.
- Tâm linh chính trị là một phần của công cuộc truyền giáo. / Trang 25
- Phản đối cách tiếp cận chính trị mới/ Trang 30
Tiêu chuẩn hàng đầu của Kuiper
- Chỉ có thế giới quan của Đức tin Cải cách mới có thể dễ dàng thừa nhận thực tế của tội lỗi, lĩnh vực ân điển chung được gọi là văn hóa, tổ chức ân điển đặc biệt được gọi là hội thánh và vương quyền của Chúa Giê-sus trên toàn vũ trụ. / Trang 26
- Nguồn gốc cuối cùng của quyền lực cai trị một quốc gia bắt nguồn từ Chúa.
- Các nguyên tắc Kinh Thánh là chuẩn mực cho mọi khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả chính trị. Quyền lực nhà nước bị giới hạn bởi các sắc lệnh của Đức Chúa Trời, “thông qua lương tâm của cử tri và công chức.” Tuy nhiên, quyền lực nhà nước không được điều chỉnh trực tiếp bởi các nguyên tắc Kinh Thánh này, cũng không được thể hiện thông qua các quy tắc của bất kỳ giáo hội nào. Điều này được hiểu là nó không nên mang tính tuyệt đối dưới hình thức giáo lý hay được thực thi thông qua quyền lực của giáo hội. Thay vào đó, nó nên được thực thi trong phạm vi ân điển chung, thông qua thảo luận công bằng và cạnh tranh giữa lương tâm của người dân.
- Nhà nước phải đảm bảo đủ tự do để phúc âm có thể tác động đến xã hội. … Cơ Đốc nhân có trách nhiệm tham gia vào nhiều hình thức hợp tác khác nhau để thực thi các nguyên tắc Kinh Thánh trong việc thảo luận các vấn đề và hoạch định chính sách. Tuy nhiên, hoạt động tích cực này phải dựa trên một thái độ chính trị, tâm linh và trí tuệ vững chắc, cũng như một nền tảng biện giáo văn hóa. / Trang 26
[1]CS Lewis, trong tác phẩm “Vấn đề của nỗi đau”, đây là hai trong số những điều mà tác giả nhấn mạnh để hỗ trợ cho lập luận của mình.
[2]Karl Barth, Church Dogmatics , IV/3, tr. 871. Trích dẫn trong Eugene Peterson, David: A Spirituality Rooted in Reality, do Jongdae Lee, IVP, Seoul:1999 (1997) dịch, tr. 272.

