Hàm ý liên quan đến Thánh lễ
- Trong Giăng 6:41, các động từ xuất hiện theo thứ tự giống như bữa tiệc cuối cùng trong Mác 14:22. Cả hai đoạn đều sử dụng các động từ như “cầm lấy” (λαβὼν – labón), “tạ ơn” (εὐλόγησεν/εὐλογήσας – eulogésen/eulogésas), “bẻ ra” (κατέκλασεν/ἔκλασεν – katéklasen/éklasen), và “trao cho” (ἐδίδου/ἔδωκεν – edídou/édoken). Giữa hai đoạn này có sự tương đồng rõ ràng.
- Nhà nghiên cứu Stein còn bổ sung thêm một số điểm tương đồng khác ngoài các động từ này, chẳng hạn như: “khi trời về chiều/buổi tối” (6:35, 14:17), “cho các môn đồ” (6:41, 14:22), và “bánh” (ἄρτους/ἄρτον – ártous/árton).
- Như có thể suy đoán, các động từ này theo truyền thống được sử dụng để miêu tả hành động trong Thánh lễ trong bữa Tiệc Ly cuối cùng.
- Bằng chứng cho thấy câu chuyện phép lạ này được liên kết với Thánh lễ có thể được tìm thấy trong phần giải thích thần học về câu chuyện phép lạ hóa bánh và cá trong Giăng 6:48-58.
- 48Ta là bánh của sự sống. 49Tổ phụ các ngươi đã ăn ma-na trong hoang mạc rồi cũng chết. 50Đây là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì không chết. 51Ta là bánh sự sống từ trời xuống; nếu ai ăn bánh nầy thì sẽ sống đời đời. Bánh mà Ta sẽ ban cho vì sự sống của thế gian chính là thịt Ta.” 52Vì vậy, có cuộc tranh cãi giữa những người Do Thái với nhau. Họ nói: “Làm sao ông ta có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?” 53 Đức Chúa Jêsus bảo họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt và uống huyết Con Người thì không có sự sống đời đời trong các ngươi đâu. 54Ai ăn thịt và uống huyết Ta thì được sự sống đời đời; Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng. 55Vì thịt Ta thật là thức ăn, huyết Ta thật là thức uống. 56Ai ăn thịt Ta và uống huyết Ta thì ở trong Ta, và Ta ở trong người ấy. 57Như Cha hằng sống đã sai Ta, và Ta nhờ Ngài mà sống thể nào thì người ăn Ta cũng sẽ nhờ Ta mà sống thể ấy. 58Đây là bánh từ trời xuống, không như bánh tổ phụ các ngươi ăn rồi chết; người nào ăn bánh nầy sẽ sống đời đời.”
- Giăng chương 6, sau khi liên kết câu chuyện phép lạ hóa bánh với sự kiện manna trong Cựu Ước, Chúa Giê-su đã liên kết bánh từ trời xuống với chính Ngài, và tuyên bố rằng: “Ai ăn thịt và uống huyết Ta thì được sự sống đời đời” (Giăng 6:54). Nếu bữa Tiệc Thánh, như lời Chúa Giê-su trong Mác 14:25 (“Thật, Ta bảo các con, Ta sẽ không uống nước nho nầy nữa cho đến ngày Ta sẽ uống nước nho mới trong vương quốc Đức Chúa Trời.”), là sự nếm trải trước tiệc thánh trong nước Đức Chúa Trời, thì xét về mặt biểu tượng, bánh được ban cho dân chúng trong hoang mạc chính là dấu hiệu chỉ về sự ứng nghiệm mang tính Đấng Mê-si-a.
- Mô-típ bánh được cung cấp một cách kỳ diệu trong hoang mạc, trước hết, phản ánh về Môi-se và ma-na; thứ hai, chuẩn bị cho việc Chúa Giê-su sau này thiết lập Tiệc Thánh (Mác 14:22-25). Theo đó, sự cung ứng ma-na trong hoang mạc (bởi Môi-se và Chúa Giê-su), yến tiệc của Đấng Mê-si, và ý nghĩa lễ kỷ niệm Lễ Vượt Qua của dân Y-sơ-ra-ên (về mặt thời gian), tất cả đều có thể được hiểu như một mô-típ chung mô tả sự cứu rỗi thời tận thế như một bữa yến tiệc.
- Nếu hiểu bữa tiệc nơi hoang mạc mà Chúa Giê-su tổ chức trong mối liên hệ với “Xuất Ai Cập mới” (new exodus) được nhấn mạnh trong sách Ê-sai và “yến tiệc của Đấng Mê-si” (messianic banquet) trong văn học khải huyền (như đã đề cập sơ qua trước đó) thì ý nghĩa của nó sẽ càng trở nên phong phú hơn. Tất nhiên, về quy mô, nó có thể không sánh bằng ma-na trong cuộc Xuất Hành xưa. Tuy nhiên, xét về ý nghĩa sâu sắc và sự vĩnh cửu, sự kiện này có thể được xem như một điều lớn lao hơn nữa.
Hàm ý của ‘giỏ nhỏ’ và ‘giỏ lớn’/ Sự khác biệt trong câu chuyện phép lạ hóa bánh cho người Do Thái và dân ngoại
- Từ “giỏ nhỏ” (κοφίνος – kofinos) ám chỉ một loại giỏ nhỏ, nhẹ, được làm từ các nhánh cây, mà người Do Thái thường sử dụng để mang theo bữa trưa đơn giản. Việc gom lại các mẩu vụn thức ăn thừa sau bữa ăn là một thói quen thường nhật của người Do Thái nhằm tránh thực phẩm bị lãng phí hay ôi thiu. Trong câu chuyện Chúa Giê-su làm phép lạ hóa bánh cho 4.000 người (Mác 8:1-9), phần vụn thức ăn thừa được cất giữ trong “giỏ lớn”. Từ “giỏ lớn” (σπυρίς – spyris) khác với từ “giỏ nhỏ” theo ngôn ngữ Do Thái. “Giỏ lớn” to hơn và được đan tròn, thường được cho là loại giỏ mà dân ngoại sử dụng (Công vụ 9:25). Mặc dù đây có vẻ chỉ là sự khác biệt trong miêu tả, việc sử dụng từ “giỏ nhỏ” dành cho người Do Thái và “giỏ lớn” dành cho dân ngoại đã phản ánh tính lịch sử và thực tiễn của cách mà Kinh Thánh được ghi chép. Thật đáng kinh ngạc phải không? Các ghi chép trong Kinh Thánh không chỉ dựa trên ngôn ngữ lý thuyết mà còn dựa trên ngôn ngữ thực tiễn chính xác.
- Số ‘mười hai’ là một biểu tượng tương phản với số ‘bảy’ trong Mác 8:1-9. Những “giỏ nhỏ” thức ăn thừa được thu lại trên đất Do Thái là mười hai (Mác 6:43), trong khi những “giỏ lớn” thức ăn thừa trên đất ngoại bang là bảy (Mác 8:8). Số ‘mười hai’ tượng trưng cho dân Do Thái, được đại diện bởi mười hai chi tộc. Còn số ‘bảy’ có thể được xem là biểu tượng cho dân ngoại, dựa trên bảy dân tộc ở Ca-na-an trong Cựu Ước (Phục Truyền 7:1), bảy người được chọn trong Công vụ (Công vụ 6:1-6; 21:8), và bảy Hội Thánh ở châu Á được biểu tượng bởi bảy chân đèn trong Khải Huyền (Khải Huyền 1:20).
- Việc sai phái mười hai môn đồ trong Lu-ca 9:1-10 hướng đến dân Y-sơ-ra-ên, còn việc sai phái 70 người trong Lu-ca 10:1-22 mang tính biểu tượng hướng đến dân ngoại. Dựa trên điều này, số ‘bảy’ có thể được xem là biểu tượng cho dân ngoại.
- Như vậy, Mác đã truyền đạt một cách tinh tế, phân biệt các yếu tố khác biệt cần thiết ngoài những yếu tố chung cơ bản.
- Số lượng người ăn bánh trong vùng đất Do Thái là năm ngàn người nam (Mác 6:44), còn trong vùng đất dân ngoại là bốn ngàn người (Mác 8:9). Điều này thể hiện sự khác biệt trong cách tính số người ở mỗi khu vực: tại vùng đất Do Thái, theo cách tính của người Do Thái, chỉ tính đàn ông; trong khi ở vùng đất dân ngoại, theo cách tính của người dân ngoại, bao gồm cả nam lẫn nữ. Vì vậy, sự kiện năm ngàn người ăn bánh (Mác 6:30-44) liên quan đến chức vụ dành cho dân Do Thái, còn sự kiện bốn ngàn người ăn bánh (Mác 8:1-10) liên quan đến dân ngoại.
- Bối cảnh của câu chuyện cũng khác nhau: phép lạ đầu tiên về việc hóa bánh (Mác 6:30-44) diễn ra ở phía tây Biển Ga-li-lê, trong vùng đất Do Thái Ga-li-lê; còn phép lạ thứ hai (Mác 8:1-9) diễn ra ở vùng đất dân ngoại, sau khi đi qua Đê-ca-bô-li, nằm ở phía đông Biển Ga-li-lê.
Phản ứng của đám đông và các môn đồ
- France cho rằng các câu chuyện về phép lạ trong sách Mác thường kết thúc bằng sự kinh ngạc của đám đông, bởi chính họ là những người nhận được lợi ích từ phép lạ. Tuy nhiên, trong phép lạ năm ngàn người ăn bánh (Mác 6:30-44) và bốn ngàn người ăn bánh (Mác 8:1-10), sách Mác lại im lặng về phản ứng của đám đông. France giải thích rằng lý do là vì điều quan trọng đối với Mác không phải là đám đông đã thất bại trong việc đáp ứng đúng đắn, mà là phản ứng của các môn đồ (Mác 6:52; 8:17-21). Điều này cũng phù hợp với bối cảnh trước đó, khi Mác nhấn mạnh vào lời dạy của Chúa Giê-su.
- Tuy nhiên, khi nhìn nhận hai phép lạ về việc cho đám đông ăn từ góc độ Kitô luận, có thể thấy rằng điều Mác muốn nhấn mạnh và lặp lại không phải là phản ứng của đám đông hay các môn đồ, mà chính là phép lạ của Chúa Giê-su (qua đó bày tỏ quyền năng và thẩm quyền thần thánh của Ngài).
Bữa tiệc của Chúa Giê-su và bữa tiệc của những nhà lãnh đạo thế gian
- Trong đoạn văn, sự nhấn mạnh mang tính ‘Kitô luận’ của Mác được thể hiện qua nhiều cách khác nhau. Chúa Giê-su, khi nhìn thấy đám đông lớn, đã động lòng thương xót vì họ giống như “chiên không có người chăn.” Ngài chính là người chăn chiên nhân lành, có đủ tài nguyên thuộc linh và vật chất để đáp ứng mọi nhu cầu của họ.
Việc Chúa Giê-su cho đám đông ăn không chỉ phản ánh hành động của Đức Chúa Trời trong quá khứ, hiện tại và tương lai, mà còn có ý nghĩa mang tính lịch sử và liên quan đến sự cứu chuộc sau cùng. Điều này gợi nhớ về sự kiện dân Y-sơ-ra-ên được Đức Chúa Trời chu cấp ma-na trong đồng vắng. Trong đồng vắng, Đức Chúa Trời đã thể hiện quyền năng của Ngài để nuôi sống dân Ngài khi họ ở một nơi “xa xôi” và không có nguồn lực nào. Phép lạ này cũng hướng tới tiệc thánh Mê-si-a (Ê-sai 25:6-7), tượng trưng cho sự cứu rỗi cuối cùng của Đức Chúa Trời và Ngài sẽ nuôi dưỡng dân sự của Ngài đời đời. Hình ảnh mọi người được ăn no nê và vẫn còn dư dật mô tả về công cuộc sáng tạo mới, nơi không còn đói kém hay thiếu thốn nữa.
- Sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh và cá cho đám đông là những người như chiên không có người chăn được xem như một biểu tượng cho bữa tiệc của Đấng Mê-si-a. Điều này đối lập với bữa tiệc xa hoa của vua Hê-rốt, được tổ chức dành cho các quan chức cấp cao, các chỉ huy và những người có thế lực ở Ga-li-lê (6:22). Bữa tiệc của Hê-rốt với âm nhạc ngoại quốc và vũ điệu của các thiếu nữ không thể thỏa mãn cơn đói khát của con người, nhưng thức ăn mà Chúa Giêsu ban phát trong hoang mạc ám chỉ sự sung túc của bữa tiệc Đấng Mê-si-a trong thời kỳ tận thế, cùng với lương thực sự sống đời đời không bao giờ làm con người đói khát.
- Như đã đề cập trước đó, sự kiện Chúa Giê-su hóa bánh và cá cho đám đông trong hoang mạc gợi nhớ về cuộc Xuất Ai Cập của dân Y-sơ-ra-ên và việc họ được nuôi dưỡng bằng lương thực trong sa mạc. Tuy nhiên, điều này còn tiến xa hơn, mô-típ hoang mạc ám chỉ rằng Chúa Giêsu còn vĩ đại hơn Môi-se, Đấng sẽ thực hiện một cuộc Xuất Hành mới. Hơn nữa, Chúa Giê-su còn có thể ban điều mà Môi-se không thể. Môi-se phải đối mặt với dân Y-sơ-ra-ên đầy bất mãn và hay than phiền vì cơn đói, nhưng những người tụ họp quanh Chúa Giê-su đều được thỏa mãn. Bánh mà Chúa Giê-su ban phát không chỉ dư dật đến nỗi còn thu lại các giỏ thừa mà còn khác với mana, thứ không thể giữ được qua ngày hôm sau.
- Marcus cho rằng trong câu chuyện phép lạ hóa bánh và cá, Chúa Giê-su xuất hiện là Đấng mặc khải được mong đợi trong Cựu Ước, không phải như một nhà lãnh đạo quân đội mà là Đấng chăn chiên của dân chúng, người tổ chức một bữa tiệc và dẫn họ đến chiến thắng cuối cùng. Hơn nữa, ở phần kết của câu chuyện, các môn đồ đã thu gom các mẩu bánh dư thừa, trái ngược với câu chuyện trong Xuất Ai Cập (Xuất Ai Cập 16:19-20), nơi dân chúng được cảnh báo nghiêm khắc không được tích trữ mana còn sót lại. Những mẩu bánh dư thừa của Chúa Giêsu được gom lại, minh chứng cho sự cung cấp dư dật từ những giỏ bánh của Ngài. Do đó, Chúa Giê-su không chỉ hoàn thành hình mẫu của Môi-se mà còn vượt trên cả điều đó.
- Câu chuyện Chúa Giê-su- Đấng chăn nhân lành- làm phép lạ nuôi dân chúng không chỉ hướng đến người Do Thái (Mac 6:30-44) mà còn cho cả dân ngoại (Mac 8:1-10). Sự kiện này cũng gợi nhớ hình ảnh của Lễ Tiệc Thánh được thiết lập sau này, qua đó tưởng nhớ món quà cứu rỗi được ban qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su. Trong hoang mạc, Chúa Giêsu là Đấng chăn nhân lành, chăm sóc và nuôi dưỡng dân của Ngài. Hơn nữa, Ngài là Đấng chăn vĩ đại hơn Môi-se, người có đủ nguồn lực cả về vật chất lẫn tâm linh để đáp ứng nhu cầu của dân Ngài. Ngài cũng là Vua Mê-si-a, Đấng khai mở tiệc cưới Mê-si-a trong thời kỳ sau rốt.
Vài điều có thể xem xét thông qua nghiên cứu trên Phép lạ “năm chiếc bánh và hai con cá” là một câu chuyện phép lạ được nhắc đến trong cả bốn sách Phúc Âm (Ma-thi-ơ 14:13-21; Mác 6:30-44; Lu-ca 9:10-17; Giăng 6:1-15). Về cơ bản, phép lạ này thể hiện thần tính của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, trong Mác 6:30-44, tác giả Phúc Âm Mác miêu tả Chúa Giê-su như một “Đấng chăn chiên nhân lành” chăm sóc đàn chiên của mình (6:34, 41), một “Môi-se mới và vĩ đại hơn” nuôi dưỡng dân của Đức Chúa Trời trong hoang mạc (6:34), và là “vị vua Mê-si-a của thời kỳ tận thế” mở ra bữa tiệc Mê-si-a (6:41). Ngoài góc nhìn về ‘Kitô luận’ thì câu chuyện này còn chứa đựng các chủ đề phụ. Chúa Giê-su, với lòng thương xót những người tìm đến mình, đã dạy dỗ họ trước khi thực hiện phép lạ hóa bánh và cá. Hành động này gợi lên hình ảnh Môi-se trong hoang mạc, người đã truyền Torah là lời Đức Chúa Trời (Xuất Ai Cập) và dạy dỗ dân chúng (Phục truyền Luật lệ Ký), nuôi dân bằng ma-na mà Đức Chúa Trời ban cho. Tuy nhiên, khác với thời Xuất Ai Cập, khi dân chúng chỉ được thu gom đủ dùng trong một ngày (ngoại trừ trước ngày Sa-bát), Chúa Giê-su đã cung cấp dư dật đến mức phần còn lại còn được thu gom lại, thể hiện sự phong phú vượt trội. Cũng có thể nói thêm rằng Chúa Giê-su không chỉ vượt qua Môi-se như một người trung gian của Đức Chúa Trời mà còn hành động như chính Đức Chúa Trời, thể hiện rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Các chủ đề mà sự kiện này muốn truyền tải bao gồm:
Các luận điểm phụ gồm:
|
Suy ngẫm về nghiên cứu Kinh Thánh 2
Lời Kinh Thánh trong Ê-sai 29:9-14, với chủ đề “Vì dân nầy chỉ lấy miệng đến gần Ta, Lấy môi miếng tôn vinh Ta, Nhưng lòng chúng nó thì cách xa Ta lắm ” (theo bản dịch Tiếng Việt hiệu đính) như sau
9Hãy sững sờ và kinh ngạc! Hãy làm cho mình mù mắt và quáng lòa! Họ say nhưng không phải vì rượu; Họ lảo đảo nhưng không phải vì rượu mạnh. 10Vì Đức Giê-hô-va đã đổ thần ngủ mê trên các ngươi; Ngài đã bịt mắt các ngươi là các nhà tiên tri, Và đã trùm đầu các ngươi là những nhà tiên kiến.
11Vì vậy đối với các ngươi, khải tượng về tất cả điều nầy giống như những lời ghi trong cuộn sách bị niêm phong. Nếu đưa cho người biết đọc và bảo: “Hãy đọc sách nầy,” thì người ấy sẽ trả lời rằng: “Tôi không thể đọc được vì sách nầy đã bị niêm phong.” 12Hoặc nếu đưa cuộn sách cho người không biết đọc và bảo: “Hãy đọc sách nầy,” thì người ấy sẽ trả lời: “Tôi không biết đọc.” 13Chúa phán: “Vì dân nầy chỉ lấy miệng đến gần Ta, Lấy môi miếng tôn vinh Ta, Nhưng lòng chúng nó thì cách xa Ta lắm. Việc chúng kính sợ Ta chẳng qua là điều răn của loài người, Do loài người dạy bảo. 14Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm những việc lạ lùng giữa dân nầy, việc rất lạ đến nỗi sự khôn ngoan của người khôn ngoan sẽ tiêu mất, và sự thông sáng của người thông sáng sẽ bị che khuất.”
Theo đoạn văn trên, lời tiên tri trong sách Ê-sai mô tả một tình huống không thể tưởng tượng được đối với dân Y-sơ-ra-ên, đó là họ, một dân tộc được Đức Chúa Trời kêu gọi, sẽ trở nên hoàn toàn không hiểu biết về lời Ngài. Nói theo cách ngày nay, đây là lời cảnh báo rằng Hội Thánh có thể rơi vào tình trạng không biết gì về Kinh Thánh và Cơ Đốc giáo. Nguyên nhân của điều này gồm:
- Các nhà lãnh đạo thuộc linh (các tiên tri): Họ đã bám lấy quyền lực và chỉ lo nói những điều làm hài lòng các nhà cầm quyền.
- Người dân thường: Trông bên ngoài có vẻ tốt đẹp, trong khi bản chất và tấm lòng đã trở nên trống rỗng, sống một đời sống tôn giáo không có sức sống.
Kết quả là, Đức Chúa Trời để họ rơi vào trạng thái ngủ mê thuộc linh. Ngài đóng kín chân lý của Ngài, khiến tôn giáo của họ chỉ còn là cái vỏ rỗng. Dù họ vẫn có đền thờ, sách luật pháp, những người quản lý và những tín đồ trung thành, họ không còn có thể nhận được sự thách thức mới mẻ từ lời của Đức Chúa Trời. Mối quan hệ sống động và luôn đổi mới với Ngài bị thay thế bởi một tôn giáo đã bị thể chế hóa, nơi mà các tín hữu bị các lãnh đạo sai trái thao túng. Thay vì có tấm lòng chân thành hướng về Đức Chúa Trời, họ lại lợi dụng danh Ngài, biến các điều răn của Đức Chúa Trời thành những luật lệ do con người đặt ra. Kết quả là, tại Giê-ru-sa-lem – vùng đất thánh nơi dân sự đã trực tiếp nhận luật pháp từ Đức Chúa Trời, tức là các cộng đồng và khu vực nơi dân của Đức Chúa Trời sinh sống – sự khôn ngoan và hiểu biết chân thật đều biến mất. Khi tấm lòng chân thành hướng về Đức Chúa Trời không còn, chỉ còn lại những quy trình tôn giáo mang tính hình thức, năng quyền thực sự của lời Chúa đã biến mất khỏi cả cá nhân lẫn xã hội. Kết quả là, xã hội trở nên ngày càng suy đồi, rơi vào một vòng luẩn quẩn của tội ác. Đây là một nguyên tắc rõ ràng được thể hiện trong Kinh Thánh và lịch sử Hội Thánh: nếu lời của Đức Chúa Trời không còn mang ý nghĩa thực sự đối với một xã hội hay con người, thì xã hội đó sẽ không phát triển theo hướng tốt đẹp mà chỉ trở nên tồi tệ hơn.
Tại sao lại trở nên như vậy? Tại sao lời cảnh báo trong sách Ê-sai, được nói với dân Y-sơ-ra-ên thời Trung Đông cổ đại, vẫn vang lên như một lời cảnh tỉnh mang tính thực tế đối với xã hội Hàn Quốc hiện đại, nơi có đủ loại Kinh Thánh, vô số video bài giảng trên YouTube, và hàng loạt sách tín ngưỡng – thần học được bày bán khắp nơi?
Đây không chỉ là suy nghĩ của riêng tôi. Giáo sư Cựu Ước học tại Trường Thần học Honam, Kang Sung Yeol, đã nhận xét như sau:
“Từ góc nhìn của nhiều người – chủ yếu là người nước ngoài – gọi Hàn Quốc là ‘đất nước ROTC’. Điều này có nghĩa là ‘Cộng hòa của sự tha hóa toàn diện’ (Republic of Total Corruption). Họ cho rằng trong xã hội này, người ta không thể tìm thấy bất kỳ chuẩn mực đạo đức nào từ những người Cơ Đốc. Họ nói rằng, những người tin Chúa Giê-su thực sự là những người không đáng tin cậy.
Thực tế, một số lượng lớn tín hữu Cơ Đốc đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn hóa thế tục méo mó của thời đại này và đã trở nên vô cảm trước sự dạy dỗ đúng đắn của Kinh Thánh. Trong bối cảnh này, con số được báo cáo rằng 1/4 dân số Hàn Quốc là Cơ Đốc nhân – một con số có phần phóng đại – thực sự có ý nghĩa gì? Phải chăng xã hội của chúng ta đã trở thành một “Biển Chết” vì có quá nhiều “muối” đến mức không thể duy trì sự sống?”
Nguyên nhân gốc rễ nằm ở những lời rao giảng thiếu chất lượng được công bố trong hội thánh. Vì vậy điều hiển nhiên là lời Chúa được rao giảng không dẫn đến thực hành đúng đắn. Trong thời đại mà mọi người đều cần sự an ủi và chữa lành, lời Chúa lại bị lợi dụng chỉ từ góc độ này, và những người giảng dạy cũng chỉ tập trung truyền tải theo hướng đó. Trong bối cảnh này, các tín hữu không tìm cách hiểu sâu sắc lời Kinh Thánh mà chỉ muốn nghe những diễn giải đã được các nhà giảng đạo hay nhà thần học chỉnh sửa sao cho phù hợp với sở thích của mình. Những người phục vụ có trách nhiệm giải thích và truyền đạt sự dạy dỗ của Kinh Thánh chỉ cố gắng nói theo thị hiếu và trình độ của công chúng. Đương nhiên, họ cũng bị chi phối bởi chính trị giáo phái và hệ tư tưởng thần học hạn chế của mình. Kết quả là, lời sống động của Đức Chúa Trời không được tôn trọng như một sự mặc khải thiêng liêng, mà bị cắt xén hoặc bóp méo theo những mối quan tâm của con người. Những lời giảng kiểu này có thể dễ nghe, nhưng lại không truyền tải đúng ý định của Đức Chúa Trời, trở thành một kiểu suy tưởng tôn giáo chết, không mang lại bất kỳ thách thức thuộc linh nào. Bề ngoài, đó có vẻ như là lời của Đức Chúa Trời, nhưng thực chất chỉ là lời chết, chỉ đáp ứng những sở thích và sự giải trí của con người, trở thành “lời ngon tiếng ngọt và thái độ giả tạo” (巧言令色 – Đây là cách diễn đạt ám chỉ những lời nói và hành động được dàn dựng để lấy lòng người khác một cách không chân thật.)
Tại sao Đức Chúa Trời lại ban cho chúng ta một bộ Kinh Thánh gồm đến 66 sách? Hơn nữa, Ngài đã cho ghi chép và truyền lại những sách này ngay từ thời mà hầu hết các quốc gia còn chưa có hệ thống ngôn ngữ hoàn chỉnh. Điều này thực sự không phải là một kỳ diệu sao? Đây chẳng phải là một di sản huyền nhiệm hơn mọi điều huyền bí hay sao? Tham khảo thêm, các bản chép tay của Cựu Ước và Tân Ước có khoảng 5.000 bản. Trong đó, Cựu Ước có 1.056 bản và Tân Ước có khoảng 4.000 bản. Những bản cổ nhất như giấy cói Samari và giấy cói Elephantine từ Ai Cập được viết vào thế kỷ thứ 5 TCN. Những bản chép tay quan trọng đặc biệt như bản viết Alexandria, bản viết Sinai, và bản viết Vatican được đánh giá là khá quan trọng. Những bản này, được sử dụng từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 10, chỉ được viết bằng chữ in hoa Hy Lạp, không có khoảng cách giữa các chữ, gần như không có dấu nhấn âm hay dấu câu, khiến việc đọc trở nên rất khó khăn. Đặc điểm của những bản chép tay này phản ánh tình hình ngôn ngữ và chữ viết thời đó, khi chúng chưa được phát triển đầy đủ. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự quan phòng kỳ diệu của Đức Chúa Trời trong việc bảo tồn và truyền lại Cựu Ước bất chấp mọi khó khăn.
Mặc dù Kinh Thánh là một di sản kỳ diệu được bảo tồn qua sự quan phòng của Đức Chúa Trời, nhưng thật bi kịch khi nhiều tín hữu và người phục vụ vẫn chỉ dừng lại ở mức độ hiểu biết nông cạn về Kinh Thánh. Chúng ta cần nhớ rằng, dân Y-sơ-ra-ên đã bị Đức Chúa Trời phán xét và hủy diệt không phải vì họ không có đức tin nơi Đức Giê-hô-va, mà vì họ không hiểu đúng đắn đức tin ấy và đã trộn lẫn nó với tín ngưỡng của các dân ngoại, tức là sự thờ hình tượng. Thực tế ngày nay của chúng ta cũng không khác biệt là bao.
Đây là tạp chí mà tôi muốn chia sẻ những điều học hỏi và nhận thức được trong quá trình nghiên cứu Tiến sĩ tại Trường Thần học Kinh Thánh Ezra, dựa trên các nguyên tắc sau:
Tác giả: Thanh Bình |
Giới Thiệu về Kênh Youtube Đọc Kinh Thánh VIỆT-HÀN (Đường link Youtube)
Đây là kênh đọc Kinh Thánh Việt – Hàn dành cho rất nhiều đối tượng: trẻ em trong gia đình đa văn hóa Hàn-Việt, những người phục vụ Chúa có liên quan đến hai ngôn ngữ Việt-Hàn và cả những người học ngoại ngữ muốn nâng cao thêm khả năng sử dụng ngôn ngữ. Dù là cho mục đích gì thì xin mọi sự hiệp lại làm ích lợi cho những người yêu mến Chúa.
Mong mọi người ủng hộ kênh bằng cách “Đăng ký” và “Thích“👍 để chúng tôi có động lực làm.
Bản dịch được sử dụng trong kênh:
- Bản dịch tiếng Việt: Kinh Thánh tiếng Việt Bản Hiệu đính 2010. Bản quyền © 2010 United Bible Societies.
- Bản dịch tiếng Hàn: 대한성서공회 : 저2023-032 ‘성경전서 새번역’의 저작권 사용허가